1. Lý luận về khả năng của vốn văn hóa trong kích thích lao động sáng tạo

Xuất phát từ ý tưởng ban đầu của nhà nghiên cứu Pierre Bourdieu (1984) coi vốn văn hóa là tập hợp những năng lực, phẩm chất văn hóa của cá nhân ảnh hưởng đến việc phân tầng xã hội thông qua hoạt động tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ văn hóa; các nhà kinh tế học hiện nay như Thorsby (1999), Ulibarri (2000), Cheng (2006),… đã mở rộng phạm vi ứng dụng và xem vốn văn hóa là khả năng tạo ra sự giàu có từ việc đầu tư vào vốn văn hóa, tức là đầu tư vào các tài sản văn hóa hữu hình và tài sản văn hóa vô hình của cá nhân, cộng đồng và quốc gia. Mặc dù, có những khác biệt nhất định, nhưng cả hai cách tiếp cận này đều thừa nhận đặc trưng của vốn văn hóa nằm ở tính vận động và khả năng sáng tạo ra lợi ích kinh tế, xã hội; để được coi là vốn văn hóa thì những yếu tố văn hóa phải thể hiện được những đặc trưng nói trên. Văn hóa tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ tới động lực của người lao động, kích thích lao động sáng tạo. Thực tiễn đã chứng minh, nhiều các doanh nghiệp đã biết sử dụng văn hóa tổ chức như là một công cụ hữu hiệu để tác động tới động lực của người lao động, kích thích lao động sáng tạo và từ đó dẫn đến nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh và tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Chẳng hạn như với giá trị chủ yếu là hướng tới con người và sự hợp tác tham gia của con người trong quá trình lao động hoặc một trong các giá trị cơ bản là tôn trọng conngười, tạo điều kiện cho các thành viên, người lao động được phát triển đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần, thì hiệu quả năng suất lao động đảm bảo chắc chắn cao, tổ chức, doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao và phát triển bền vững.

Trong tổ chức, doanh nghiệp, có văn hóa tổ chức mạnh sẽ tác động tích cực tới tổ chức, doanh nghiệp và hành vi của người lao động. Theo Microsof, Mary Kay: “Văn hóa mạnh có thể góp phần làm giảm sự luân chuyển lao động vì văn hóa mạnh quy tụ được sự nhất trí cao giữa những thành viên về những gì mà tổ chức của họ đề ra”. Bởi vì, nó sẽ hội tụ, nhất trí quan điểm về mục đích, mục tiêu phát triển của tổ chức, doanh nghiệp; như vậy sẽ tạo ra được sự liên kết, sự trung thành, sự cam kết với tổ chức và như thế sẽ giảm được xu hướng người lao động từ bỏ tổ chức của họ. Bên cạnh đó, văn hóa tổ chức mạnh còn có tác dụng làm tăng tính phục tùng kỷ luật, tính kiên định và khả năng sáng tạo,… tạo động lực, kích thích sáng tạo của người lao động.

Với hàm nghĩa này, việc khai thác vốn văn hóa vì mục tiêu phát triển kinh tế trở thành một chủ đề được quan tâm ở nhiều quốc gia, cộng đồng và địa phương. Quá trình này đặt ra yêu cầu phải xem xét vốn văn hóa trong mối quan hệ và sự tương tác phức tạp với các yếu tố kinh tế, xã hội và chính trị khác. Trong bối cảnh cụ thể của các quốc gia hiện đại, vấn đề này có thể được lý giải thông qua việc phân tích những tác động của ba trụ cột chính bao gồm nhà nước, thị trường và xã hội đến việc khai thác và phát huy vốn văn hóa.

Dựa trên kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu, quan điểm, khái niệm của một số nhà khoa học nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng khả năng tác động của vốn văn hóa với nhiều hình thức phong phú và đa dạng đóng vai trò rất quan trọng, trong đó có khả năng kích thích lao động sáng tạo. Bởi vì, với tư cách uy tín cá nhân hoặc của cộng đồng của mình, vốn văn hóa có thể kích thích, sử dụng nó trong các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đạt hiệu quả, như việc xác định sở hữu của nguồn vốn văn hóa với tính chất là các giá trị đang hoạt động có thể chuyển thành các nguồn vốn khác như vốn kinh tế (khai thác giá trị kinh tế từ giá trị văn hóa), vốn xã hội (đảm bảo cơ sở cho việc thiết lập mạng lưới xã hội và xây dựng chuẩn mực xã hội), vốn chính trị (sức mạnh mềm trong hoạt động đối ngoại)…

2. Tiêu chí đánh giá khả năng của vốn văn hóa trong kích thích lao động sáng tạo

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài các yếu tố lao động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, thì khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng kích thích sáng tạo của nguồn lực con người. Trong khi đó, tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành vốn văn hóa của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng.

Bên cạnh đó, giữa vốn văn hóa và kinh tế có mối quan hệ bền chặt với nhau, cho nên vốn văn hóa là yếu tố bên trong, là nguồn nội lực của quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Nghiên cứu vốn văn hóa trong kinh tế là nghiên cứu vai trò của vốn văn hóa trong phát triển kinh tế, xã hội. Vốn văn hóa phát huy vai trò của mình khi thâm nhập, tác động, kích thích lao động sáng tạo để phát triển nền kinh tế, như góp phần tích cực trong quá trình tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, đào tạo lực lượng lao động có chất lượng cao, năng suất lao động hiệu quả… Tóm lại, vốn văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc kích thích lao động sáng tạo, duy trì sự ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và được thể hiện rất rõ như:

Chính nhờ có vốn văn hóa mà lực lượng sản xuất được giải thoát khỏi sự trì trệ, để phát huy cao độ khả năng kích thích lao động sáng tạo làm cho kinh tế, xã hội phát triển, nhất là phát triển lĩnh vực kinh tế. Nhờ có vốn văn hóa mà con người trở thành nhân tố chủ đạo của quá trình sản xuất và kích thích lao động tạo ra các giá trị của nhân loại, đã góp phần không nhỏ vào quá trình tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, lực lượng lao động có chất lượng cao, có năng lực đổi mới và sáng tạo phù hợp với quan hệ lao động và phương thức làm việc tiên tiến, có khả năng thích ứng tốt với các tiêu chuẩn của thị trường quốc tế…

Theo thống kê của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) công bố năm 2017, doanh thu của ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo toàn cầu là 2,25 nghìn tỷ USD, thu hút lực lượng lao động nhiều hơn cả ngành công nghiệp xe hơi của châu Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ cộng lại (29,5 triệu việc làm so với 25 triệu); trong đó, tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương, doanh thu của ngành này là 743 tỷ USD và tạo việc làm cho 12,7 triệu lao động.

Ở phạm vi tầm quốc gia hẹp hơn, tại Anh ngành công nghiệp văn hóa tạo ra thu nhập khoảng 112,5 tỷ bảng/năm, đóng góp 5% GDP, chiếm 10 – 15% thị phần công nghiệp văn hóa thế giới; tại Đức theo báo cáo năm 2019, ngành công nghiệp văn hóa mang về tổng doanh thu 174,1 tỷ euro và tạo việc làm cho khoảng 1,8 triệu người, trong đó, doanh thu cao nhất đến từ mảng phần mềm trò chơi với hơn 50 tỷ Euro; tại Ấn Độ có doanh thu từ điện ảnh là 3,6 tỷ USD; tại Nhật Bản thì ngành công nghiệp văn hóa chiếm khoảng 7% doanh thu của nền kinh tế và trong đó, thị trường truyện tranh và tạp chí hằng năm mang về khoảng 3,2 tỷ USD…

Theo xu hướng phát triển của thế giới và khu vực, Việt Nam chúng ta cũng đang từng bước xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa: Trong thời gian qua Chính phủ ban hành Chiến lược Phát triển Văn hóa đến năm 2020 (Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 06/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ) và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ)…

Theo đó, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch triển khai thực hiện 05 ngành công nghiệp văn hóa, gồm: Điện ảnh; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; quảng cáo và du lịch văn hóa. Mục tiêu chủ yếu đến năm 2020 “Phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 3% GDP và tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội”, đến năm 2030 “Phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 7% GDP”.

Qua thực tế triển khai thực hiện, Việt Nam chúng ta cũng đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận, điển hình năm 2018, ngành văn hóa đóng góp 7.564 tỷ đô la vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa trong khuôn khổ cơ chế thị trường. Trong đó, nó còn thể hiện rõ qua sự phát triển các lĩnh vực cụ thể của ngành công nghiệp văn hóa, ngành kinh tế mũi nhọn về chỉ số doanh thu, như: Doanh thu của lĩnh vực điện ảnh năm 2017 đạt 3.228 tỷ đồng, năm 2018 đạt 3.353 tỷ đồng; doanh thu của lĩnh vực du lịch năm 2017 đạt hơn 510.900 tỷ đồng, năm 2018 đạt hơn 620.000 tỷ đồng… Tính đến năm 2018, số lao động làm việc trong ngành văn hóa là 437.167 người; trong đó, lĩnh vực văn hóa nghệ thuật luôn được đánh giá là nơi tập trung tỷ lệ lớn lao động có chất lượng cao, có năng lực đổi mới và sáng tạo… (theo số liệu thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch).

Năm 2019, Việt Nam chúng ta tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Kết quả thực hiện của 05 ngành công nghiệp văn hóa đã đạt được một số thành tựu đáng ghi nhận, cụ thể như sau:

Ngành điện ảnh doanh thu đạt khoảng 4.000 tỷ đồng (tương đương khoảng 170 triệu USD) vượt 0,7% mục tiêu đề ra tại Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2020 (đạt 150 triệu USD).

Ngành du lịch văn hóa thì các chỉ số về lượng khách du lịch quốc tế, nội địa và tổng thu từ khách du lịch đều tăng như: Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt hơn 18 triệu lượt, khách du lịch nội địa đạt khoảng 85 triệu lượt và tổng thu từ khách du lịch đạt khoảng 720.000 tỷ đồng.

Ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm thì số lượng xin cấp giấy phép triển lãm và triển lãm không vì mục đích thương mại trên cả nước là 323 giấy phép, trong đó Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp 146 giấy phép triển lãm mỹ thuật, nhiếp ảnh (gồm 112 giấy phép triển lãm mỹ thuật, 28 giấy phép triển lãm nhiếp ảnh, 02 giấy phép triển lãm mỹ thuật ứng dụng và 04 giấy phép xuất xuất khẩu không nhằm mục đích kinh doanh), tổ chức 32 cuộc triển lãm tranh, ảnh cá nhân và tổ chức; có 1.779 họa sĩ, 229 nhà điêu khắc, 1.686 nghệ sĩ nhiếp ảnh ở Trung ương và địa phương; 16 tượng đài được xây dựng và tổ chức được 104 trại sáng tác về mỹ thuật, nhiếp ảnh.

Ngành nghệ thuật biểu diễn thì các đoàn nghệ thuật ở Trung ương đã tổ chức dàn dựng 40 chương trình, 3.398 buổi biểu diễn (trong đó có 652 buổi biểu diễn phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo); kinh phí ước tính từ các buổi có bán vé đạt khoảng hơn 72 tỷ đồng. Các đoàn nghệ thuật ở địa phương đã tổ chức dàn dựng 167 chương trình, 7.094 buổi biểu diễn (trong đó có 3.065 buổi biểu diễn phục vụ vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo); kinh phí ước tính từ các buổi biểu diễn bán vé đạt khoảng gần 38 tỷ đồng.

Ngành quảng cáo thì doanh thu quảng cáo trên truyền hình đạt khoảng gần 45 tỷ đồng, báo in đạt khoảng gần 1,5 tỷ đồng, tạp chí đạt khoảng gần 350 triệu đồng, hoạt động quảng cáo ngoài trời đạt khoảng gần 1,5 tỷ đồng, trên internet đạt khoảng gần 17 tỷ đồng. Tổng doanh thu quảng cáo trên các phương tiện đạt khoảng gần 66 tỷ đồng; trên cả nước có hơn 3.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo.

3. Biểu hiện về khả năng của vốn văn hóa trong kích thích lao động sáng tạo

Cả về khoa học và thực tiễn cuộc sống đã chứng minh, vốn văn hóa của tổ chức có mối quan hệ chặt chẽ tới động lực kích thích sự sáng tạo của người lao động. Nhiều doanh nghiệp đã biết sử dụng văn hóa tổ chức như là một công cụ hữu hiệu để tác động tới sự nỗ lực sáng tạo của người lao động, từ đó dẫn đến nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh và làm cho nền kinh tế phát triển. Biểu hiện khả năng của vốn văn hóa trong kích thích lao động sáng tạo được thể hiện ở một số yếu tố như:

Trách nhiệm, chế độ thu hút nhân tài và sự cống hiến hết mình cho tổ chức. Điều này chúng ta thấy rõ, tổ chức phải có trách nhiệm duy trì tốt công ăn việc làm cho người lao động và tạo ra sự đoàn kết thân ái, gắn bó mật thiết giữa các thành viên trong tổ chức. Bên cạnh đó, tổ chức cần đề ra chính sách, chế độ đãi ngộ có tính ưu việt đối với lao động để thu hút và giữ chân nhân tài tạo sự kích thích sáng tạo trong lao động. Tổ chức cần tìm cách động viên, thuyết phục, huy động được sức mạnh tập thể cùng hướng về mục tiêu chung. Hơn thế nữa, tổ chức cần phải tạo ra được niềm tin về quyền lợi của tổ chức và người lao động là một và người lao động phải là đối tượng được chăm sóc và được hưởng thành quả, công sức họ làm ra một cách thỏa đáng. Chính nhờ đó, mà tổ chức có thể kích thích được năng lực sáng tạo của người lao động và hướng sự tự giác của họ vào các hoạt động tập thể, tổ chức. Ngược lại, người lao động cần xem tổ chức, cộng đồng như là một gia đình lớn, trong đó mỗi thành viên cần có trách nhiệm và hành động về sự tồn tại, phát triển của nó. Mặt khác, người lao động phải có trách nhiệm hoàn thành công việc, cống hiến hết mình cho tổ chức với khả năng cao nhất.

Ý chí cộng đồng và tinh thần tập thể. Như chúng ta đều biết, tri thức là kho tàng quý giá của nhân loại nói chung và mỗi dân tộc nói riêng. Tri thức không của riêng ai và không ai có đầy đủ tri thức một cách toàn diện. Bởi vây, sử dụng tri thức đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cá nhân, cộng đồng để khai thác hết kho tàng tri thức; trong đó, trí tuệ mỗi người sẽ bổ sung cho nhau tạo ra trí tuệ tập thể ở một trình độ cao và hoàn thiện hơn. Sự kết hợp đó là nét đẹp văn hóa tạo ra sức mạnh tập thể, nhằm phục vụ cho sự sáng tạo trong lao động, nâng cao hiệu quả lao động và phát triển kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, trong tổ chức hoặc cộng đồng thì ý chí cộng đồng và tinh thần tập thể được khai thác bằng việc sử dụng chế độ tham dự hội họp, chế độ làm việc theo nhóm… Tổ chức, cộng đồng tạo điều kiện nhằm mục tiêu kích thích, khai thác và phát huy được năng lực sáng kiến, sáng tạo của các cá nhân, tập hợp được ý chí chung của tập thể của người lao động trong phát triển kinh tế.

Văn hóa doanh nhân là một hệ thống các giá tri ̣, các chuẩn mưc̣, các quan niệm và hành vi của doanh nhân trong quá trình lãnh đaọ và quản lí doanh nghiệp và chuẩn mưc̣ của hệ thống giá tri ̣ đó phải hội đủ bốn yếu tố Tâm, Tài, Trí, Đức. Trong nền văn hóa kinh doanh hiện đại, ta thấy văn hóa doanh nhân thuộc hình thái cá nhân, còn văn hóa doanh nghiệp thuộc hình thái cộng đồng. Hình thái văn hóa doanh nhân có vai trò tác động tích cực rất lớn kích thích sự sáng tạo trong lao động. Bởi văn hóa doanh nhân là haṭ nhân, là bộ phận quan troṇg nhất của văn hóa doanh nghiệp. Doanh nhân là người có tầm nhìn chiến lươc̣, khả năng thích ứng với môi trường, nhaỵ cảm, linh hoaṭ, sáng taọ, là người taọ ra môi trường kích thích cho các cá nhân khác phát huy tính sáng taọ, là người góp phần mang đến không gian tư ̣ do, bầu không khí ấm cúng trong doanh nghiệp. Doanh nhân có khả năng thay đổi hẳn văn hóa của doanh nghiệp và taọ ra một sức sống mới, taọ bước nhảy voṭ trong hoaṭ động của doanh nghiệp và kích thích sự sáng tạo trong lao động của các cá nhân, góp phần xây dựng và phát triển về kinh tế, xã hội.

4. Thực trạng và đánh giá khả năng của vốn văn hóa trong kích thích lao động sáng tạo ở thủ đô Hà Nội

Năm 1999, đặt dấu mốc quan trọng khi thủ đô Hà Nội trở thành thành phố đầu tiên ở Châu Á nhận danh hiệu “Thành phố vì hòa bình” của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO). Sau 20 năm khi được UNESCO công nhận là “Thành phố vì Hòa bình”, thì vào ngày 30/10/2019 lại đánh dấu một cột mốc quan trọng nữa, thủ đô Hà Nội đã trở thành thành phố đầu tiên của Việt Nam được UNESCO chính thức công nhận là “Thành phố sáng tạo”, tham gia vào mạng lưới các thành phố sáng tạo trên toàn cầu. Thủ đô Hà Nội – Thành phố sáng tạo là một câu chuyện mới trong giai đoạn mới, đại diện cho một thương hiệu và hình ảnh của Hà Nội và đất nước Việt Nam. Đây là thế mạnh để hướng tới tương lai, hướng tới hòa nhập và phát triển bền vững.

Thủ đô Hà Nội là nơi hội tụ của tri thức văn hóa, kết hợp giữa truyền thống và sự sáng tạo của các tài năng trẻ; vận dụng nền tảng tài nguyên vốn văn hóa phong phú và đa dạng kích thích năng lượng sáng tạo trẻ; trở thành chất xúc tác nhằm thu hút khách du lịch, đầu tư, vốn phát triển, cụ thể như:

Với bề dày hơn 1.000 năm lịch sử, Thủ đô Hà Nội hiện đang sở hữu một nguồn lực di sản văn hóa vô cùng phong phú. Đó là các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Trên địa bàn Hà Nội hiện nay có trên 5.000 di tích lịch sử – văn hóa, nhiều nhất trong cả nước, trong đó có trên 2.000 di tích đã được xếp hạng;
là nơi diễn ra hàng trăm lễ hội mỗi năm cùng với các phong tục, tập quán khác,… ngành văn hóa, thể thao và du lịch của Thủ đô Hà Nội đã dựa vào việc khai thác, phát huy các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể, truyền thống văn hóa, cảnh quan văn hóa,… thu hút khách du lịch nhằm phát triển kinh tế, xã hội.

Trong những năm qua, việc khai thác các tài sản văn hóa vật thể và phi vật thể với khách tham quan, khám phá văn hóa Thăng Long đã đóng góp không nhỏ vào phát triển kinh tế của Thủ đô Hà Nội. Năm 2012, lượng khách du lịch là 14.400.000 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 2.100.000 lượt khách, tổng thu từ khách du lịch là 32.000 tỷ đồng. Năm 2013, lượng khách du lịch là 16.577.000 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 2.580.000 lượt khách, tổng thu từ khách du lịch là 38.500 tỷ đồng. Năm 2014, lượng khách du lịch là 18.510.000 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 3.010.000 lượt khách, tổng thu từ khách du lịch là 49.846 tỷ đồng. Năm 2015, lượng khách du lịch là 19.693.743 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 3.263.743 lượt khách, tổng thu từ khách du lịch là 54.974 tỷ đồng. Năm 2016, lượng khách du lịch là 21.830.906 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 4.020.306 lượt khách, tổng thu từ khách du lịch là 61.778 tỷ đồng. Năm 2017, lượng khách du lịch là 24.000.000 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 4.950.000 lượt khách, tổng thu từ khách du lịch là 71.000 tỷ đồng (theo số liệu của Cục Thống kê thành phố Hà Nội).

Theo báo cáo của Cục Thống kê thành phố Hà Nội về tình hình dân số và lao động trên địa bàn, thì năm 2017 thành phố Hà Nội có dân số trung bình là 7.654,8 nghìn người, tăng 1,8% so với năm trước, dân số đứng thứ hai trên cả nước, sau Thành phố Hồ Chí Minh; lực lượng dân số trong độ tuổi lao động là 3,8 triệu người. Qua đó có thể thấy, nguồn nội lực vốn văn hóa và sức sáng tạo của lực lượng dân số trẻ, nguồn lực con người của Thủ đô chính là động lực cho phát triển của Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn mới, phù hợp trong dòng chảy, sự vận động của khu vực và thế giới.

Như vậy, văn hóa vừa là nền tảng tinh thần nhưng đồng thời cũng là mục tiêu của quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Thực tế cho thấy, vốn văn hóa của thủ đô Hà Nội được xem là một mảnh đất màu mỡ, đủ để tạo ra rất cơ hội phong phú và đa dạng cho hoạt động kích thích sáng tạo trong lao động. Tất cả những nguồn lực này đã tạo nên nền tảng vững chắc cho sự phát triển các lĩnh vực văn hóa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GRDP của Thủ đô, đạt được mục tiêu “Thủ đô Hà Nội trở thành 1 trong 3 trung tâm công nghiệp văn hóa của cả nước” theo chiến lược của Chính phủ đề ra; tạo nền tảng vững chắc và động lực quan trọng thúc đẩy trong quá trình xây dựng “Thành phố sáng tạo” trong thời gian tới; từng bước khẳng định bản sắc văn hóa độc đáo và sức sáng tạo của mình trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy, yếu tố quan trọng đối với tầm nhìn này chính là sự nắm bắt và phát huy vốn văn hóa của thủ đô Hà Nội.

5. Những vấn đề đặt ra trong việc kích thích lao động sáng tạo ở Thủ đô Hà Nội

Toàn cầu hóa quốc tế là một xu thế, đòi hỏi chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhâp. Đây là cơ hội để chúng ta phát triển nhanhk, có hiệu quả, nhưng cũng là thách thức rất lớn với nước ta nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng trên nhiều mặt, trong đó có vốn văn hóa. Vì thế, việc kích thích lao động sáng tạo ở Thủ đô Hà Nội hiện nay có một số vấn đề được đặt ra như:

Với sự ra đời của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cũng như xu hướng tăng trưởng vượt bậc của các quốc gia đi đầu trong ngành công nghiệp văn hóa dựa trên nguồn lực tri thức, văn hóa, tư duy sáng tạo, đòi hỏi Việt Nam chúng ta, trong đó có Thủ đô Hà Nội cần tạo dựng thương hiệu mới, phát huy mọi nguồn lực và xác định chiến lược để hiện thực hóa tầm nhìn phát triển.

Vốn văn hóa phải thẩm thấu, kích thích lao động sáng tạo trong mọi mặt đời sống xã hội, nhất là đối với lực lượng đang giữ vai trò quan trong hoạt động lao động sáng tạo, nghiên cứu khoa học; vào lĩnh vực chính trị với tư cách là văn hóa chính trị; vào lĩnh vực kinh tế với tư cách là văn hóa kinh doanh, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân…

Để đảm bảo cho Thủ đô Hà Nội phát triển bền vững thì cần phải có tầm nhìn chiến lược, tổng thể và bao quát toàn diện về mọi mặt; cần phải có cách nhìn và tiếp cận hệ thống để làm sao để phát huy, khai thác lao động sáng tạo bằng sức mạnh tổng thể các giá trị của vốn văn hóa truyền thống dân tộc, lại vừa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa, cả vốn văn hóa trong quá khứ lẫn hiện tại của các nền văn hóa và khoa học hiện đại khác của thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Để nguồn lực vốn văn hóa của Thủ đô Hà Nội tạo tiếng vang và có sức hút với cộng đồng sáng tạo trong nước và quốc tế, thì thủ đô Hà Nội cần phát triển một nền tảng toàn cầu, tập trung vào việc thúc đẩy và phát triển các ngành văn hóa, tác động đến toàn bộ người dân, gắn kết văn hóa, nghề thủ công, khoa học, đổi mới, thiết kế, nghệ thuật, hệ thống giáo dục và đào tạo với một tầm nhìn chung, mục tiêu chung xây dựng và phát triển thương hiệu “Thủ đô sáng tạo”. Cần tăng cường sự gắn kết hơn nữa giữa các hoạt động của giáo dục – đào tạo trong lĩnh vực thiết kế sáng tạo, nghệ thuật và khoa học; trong việc tăng
cường chất lượng giáo dục nghệ thuật và khoa học trong hệ thống các trường giáo dục phổ thông…

6. Giải pháp phát huy khả năng của vốn văn hóa trong kích thích lao động sáng tạo ở Hà Nội

Trên cơ sở kiến thức khoa học, kinh nghiệm và tình hình thực tiễn hiện nay, Thủ đô Hà Nội cần phải giữ gìn và phát huy bản sắc vốn văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập, phát triển; trong đó, có phát huy khả năng của vốn văn hóa trong kích thích lao động sáng tạo. Bởi lẽ, vốn văn hóa dân tộc sẽ đóng vai trò định hướng và điều tiết để hội nhập và phát triển bền vững, giữ vững được độc lập, tự chủ. Xuất phát từ đó, Thủ đô Hà Nội cần phải triển triển khai một số giải pháp phát huy khả năng của vốn văn hóa trong kích thích lao động sáng tạo sau:

– Hệ thống các trường cao đẳng, đại học công lập và tư thục cần có nhiều hoạt động gắn kết với nhau như: Kết nối mạng lưới giáo dục – đào tạo cao đẳng và đại học trong lĩnh vực thiết kế sáng tạo, nghệ thuật và khoa học; thúc đẩy, tăng cường chất lượng giáo dục nghệ thuật và khoa học trong hệ thống các
trường giáo dục phổ thông…

– Hệ thống hóa, thiết lập lịch hoạt động văn hóa và các cuộc thi, hỗ trợ các sự kiện trong cộng đồng sáng tạo, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng và tăng cường các giao lưu, trao đổi quốc tế các hoạt động văn hóa.

– Đưa ra những cơ chế, chính sách để khai thông và phát huy nguồn lực vốn văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Thủ đô, nhất là trong phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo hiện nay.

– Đặt mục tiêu chiến lược cho chương trình nuôi dưỡng sáng tạo và đổi mới. “Nghệ thuật và khoa học” là công thức nền tảng cho chương trình kích thích đổi mới, kích thích lao động sáng tạo, đồng thời hệ thống giáo dục về nghệ thuật và khoa học cũng đóng góp quan trọng cho việc bồi đắp nền tảng mới.

– Thu hút sự tham gia tích cực của lực lượng thanh niên với tư duy sáng tạo, khao khát thử nghiệm và chấp nhận những rủi ro trong hoạt động khởi nghiệp kinh doanh và lao động sáng tạo.

– Các dự án phát triển đô thị trọng điểm cần được gắn kết và đóng góp vào việc xây dựng thương hiệu “Thành phố sáng tạo”, có sự kết nối từ việc nhận diện tới việc tạo không gian quảng bá và lồng ghép sử dụng sản phẩm của ngành công nghiệp văn hóa, sáng tạo.

– Cần có cách tiếp cận một mô hình phát triển Hà Nội bền vững, lấy vốn văn hóa làm trọng tâm, chú trọng các hoạt động kích thích lao động sáng tạo, sáng kiến văn hóa, hạ tầng xã hội, giáo dục và gắn kết cộng đồng nhằm nuôi dưỡng cả nghệ thuật và khoa học, góp phần gìn giữ di sản, khuyến khích sự gắn kết và tham gia tự nguyện của cộng đồng.

– Nắm bắt và phát huy các ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo; tập hợp các sáng kiến, sáng tạo văn hóa với một tầm nhìn chung về sự thống nhất, bao trùm và tăng trưởng bền vững, để xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành đầu tàu về kinh tế, văn hóa nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển.

Tài liệu tham khảo

1. Trần Thị An (2017), “Vốn văn hóa với tư cách là một nguồn lực nội sinh cho phát triển đất nước”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, số 1.

2. Trần Thị An, “Mối quan hệ giữa vốn văn hóa và vốn xã hội trong bối cảnh chuyển đổi cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI”, tra cứu ngày 02/10/2021.

3. Báo cáo công tác văn hóa, thể thao và du lịch năm 2018, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2019.

4. Báo cáo công tác văn hóa, thể thao và du lịch năm 2019, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2020.

5. Báo cáo của Cục Thống kê thành phố Hà Nội về tình hình dân số và lao động trên địa bàn năm 2017.

6. Nguyễn Duy Bắc (chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Từ điển bách khoa & Viện Văn hóa, Hà Nội.

7. Trần Hữu Dũng (2002), “Vốn văn hóa”, Tạp chí Tia sáng, 12/2002.

8. Phạm Duy Hải (2009), “Văn hóa kinh doanh – Yêu cầu tất yếu của sự phát triển kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa”, Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 6.

9. Phạm Thị Thanh Hường, “Ba chính sách trụ cột chính để phát huy nguồn lực văn hóa trong xây dựng Thủ đô sáng tạo”, Tạp chí Cộng sản, truy cập ngày 28/9/2021.

10. Trần Đình Hượu (1986), “Vấn đề tìm đặc sắc văn hóa dân tộc”, Văn hóa Nghệ An online.

11. Phạm Xuân Nam (2011), Văn hóa và Kinh doanh, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.

12. Trần Quốc Toản (2018), “Vị trí và vai trò của văn hóa trong đổi mới – phát triển: Thực tiễn và những vấn đề đặt ra”.

13. Thống kê do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện, phục vụ cho
Báo cáo định kỳ 2016 – 2019 Công ước 2005 về bảo vệ và phát huy sự đa dạng
các biểu đạt văn hóa.

14. Ðoàn Thị Thanh Thúy, “Vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế – xã hội”, tra cứu ngày 02/10/2021.

15. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, “Vốn văn hóa và vấn đề phát triển công chúng cho nghệ thuật sân khấu truyền thống ở Việt Nam hiện nay”, tra cứu ngày 28/9/2021.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *