Diễn trình văn học không phải là một đường thẳng liền mạch nhất quán, mà là một đường gấp khúc đứt đoạn đa dạng. Vào những thời điểm đứng giữa ngổn ngang bộn bề ngả hướng chưa thực sự được phát quang định hình, sáng tác thường hoang mang và tiếp nhận – phê bình thường lúng túng. Chính lúc này hơn lúc nào hết, người ta cần đến lí luận văn học, đúng hơn là cần đến một bộ công cụ lí luận văn học mới mẻ cập thời. Bởi văn học, cũng như mọi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan, luôn vận động để tồn tại, tự phủ định để phát triển; theo đó không thể có một thứ lí luận văn học nhất thành bất biến, trùng khít tương thích với thực tiễn sáng tác mọi thời. Từ năm 1962, nhà kí hiệu học và nhà văn người Ý Umberto Eco – tác giả tiểu thuyết Tên của đoá hồng nổi tiếng – đã nhận ra, rằng các khái niệm truyền thống không còn đủ để hiểu các tác phẩm văn học nghệ thuật của thời đại mới. Sự trương nở không ngừng của văn học đặt ra những yêu cầu mới liên quan đến cách thế sáng tạo và tiếp nhận văn học, tạo nên sự cần thiết phải đổi mới tư duy lí luận văn học. Bằng việc giải quyết theo những đường hướng khác nhau các vấn đề cơ bản của khoa học văn chương, như quan niệm về văn học nói chung, về thể loại, văn bản, tác phẩm, chủ thể sáng tạo, chủ thể tiếp nhận, chức năng của văn học, quan hệ giữa tác phẩm và hiện thực, tính dân tộc và tính nhân loại, tính tự trị và tính tích hợp, vai trò của ngôn ngữ… nói riêng, lí luận văn học vừa tiên phong soi sáng vừa đồng hành làm tươi mới khởi sắc cho sáng tác và tiếp nhận – phê bình. Một khi vượt thoát quán tính, tự tháo dỡ những quan niệm đóng đinh về văn học và những phạm trù liên quan, thay đổi góc nhìn hướng nhìn cách nhìn tầm nhìn, thì khi đó cái viết lẫn cái đọc sẽ đồng thời thay đổi.
Nhiều người xác quyết, rằng nhà văn không cần sáng tác theo lí thuyết chủ nghĩa nào cả. Quan niệm này ngày càng tỏ ra lỗi thời, thiếu thuyết phục. Bởi, như có nhà nghiên cứu đã nói, nô lệ chủ nghĩa thì tác phẩm khô héo và không thể bay, nhưng nếu thiếu các chủ nghĩa thì một nền văn học không thể làm thành trào lưu, riêng cá nhân nhà văn dễ rơi vào vùng viết cảm tính mơ hồ và không thể đi xa. Để có thể làm nên một cuộc cách mạng, một “thời đại mới” trong văn học, cái bản năng phải được hướng đạo bởi một ý thức xã hội mới, một tư duy triết mĩ mới, một quan niệm văn học mới, một tâm thế sáng tạo mới, như trường hợp các nhà văn Tự lực văn đoàn và các nhà thơ của phong trào Thơ mới trước 1945, hay các nhà thơ của nhóm Sáng tạo thập niên 1950 chẳng hạn. Chừng nào còn tồn tại những quan niệm thơ theo chủ nghĩa hồn nhiên bản năng, chủ nghĩa sướt mướt uỷ mị, chủ nghĩa nôm na dân dã, chủ nghĩa đề tài ngâm vịnh, chủ nghĩa cổ động khẩu hiệu, chủ nghĩa vần vè du dương…, thì chừng ấy tính nghiệp dư, tính phong trào, tính báo tường, tính câu lạc bộ, tính phường xã… là lực cản bánh xe thơ bứt phá về phía trước. Nhiều người lại bảo, người viết không phải cách tân hay thử nghiệm gì cả, chỉ cần viết sao cho hay. Trong bối cảnh văn học hiện nay, cách tư duy này cũng không còn thuyết phục, hợp thời. Bởi, “hay” là một phạm trù mở, mang tính lịch sử, trừu tượng và chủ quan. “Hay” của ngày hôm nay, ngoài những hằng số bất biến thì còn phải đính kèm được những yếu tố mới, như lạ hoá, như vừa khuôn với cảm trạng sống và giác quan đọc của người đọc hiện thời, như có khả năng khai phóng và tạo trường ảnh hưởng. Sáng tạo/ thử nghiệm là con đường tất yếu của văn chương, đáp ứng nhu cầu đổi mới tự thân của người viết, đáp ứng sự thay đổi của nhu cầu đọc, tương thích với xu thế chung của thời cuộc văn học. Mỗi hình thức sáng tạo/ thử nghiệm đều là thành phẩm của một giai đoạn lịch sử cụ thể mà văn chương khởi sinh, văn chương thuộc về, và chỉ có thể làm cho nghệ thuật văn chương trở nên phong nhiêu đa bội mà thôi.
Nhà nghiên cứu Phan Trọng Thưởng nhận định, rằng thực tiễn văn học nghệ thuật không ngừng vận động phát triển dưới tác động của những quy luật lịch sử mới, những nhân tố chủ quan và khách quan mới; tình trạng này tạo nên độ vênh lệch đáng kể giữa một bên là hệ thống lí luận mang màu sắc quan phương giáo điều với một bên là thực tiễn sinh động phong phú đa dạng; lí luận văn học khủng hoảng nên hệ thống tiêu chí đánh giá tiếp nhận và thưởng thức văn học cũng xộc xệch theo. Thực vậy, trước tính chất ngày càng động và mở của văn chương, không thể an tâm tiếp tục mãi một cách nhìn, một định nghĩa tĩnh và đóng về văn chương, không thể cứ dùng mãi cái thước lí luận văn học cũ để đo thực tiễn văn chương mới. Prigogine – nhà bác học người Bỉ gốc Nga đoạt giải Nobel hóa học năm 1977 – từng nói, rằng bài học thật sự của nguyên lí bổ sung hiển nhiên là tính chất phong phú của thực tại nó vượt ra ngoài mọi ngôn ngữ, mọi cấu trúc logic, mọi lí giải khái niệm. Nhà thơ Chế Lan Viên cũng từng thành thực, rằng thực ra ông chưa hiểu hết thơ đâu, ông cũng có định nghĩa nhiều lần đấy, nói hẳn hoi viết hẳn hoi, nhưng lần này định nghĩa thì lần sau nắn lại, chỗ này định nghĩa thì chỗ khác bổ sung, nên vẫn cứ nghĩ tiếp nghĩ mãi. Rõ ràng, văn chương có trước định nghĩa. Văn chương vận động thay đổi, lẽ nào định nghĩa văn chương bất động bảo nguyên? Mấy mươi năm nay, các sáng tác thơ cách tân của nhóm Nhân văn ở miền Bắc, nhóm Sáng tạo ở miền Nam…, rồi tới thơ tân hình thức Việt, thơ hậu hiện đại Việt xuất hiện, làm bất an những định nghĩa về thơ trước đó tưởng đã được đóng khung đông cứng. Chẳng hạn, sau Bến lạ của Đặng Đình Hưng, giới sáng tác, đặc biệt là tác giả trẻ, đã dần kéo ngôn ngữ thơ đến gần với ngôn ngữ văn xuôi, dần thuyết phục công chúng, rằng thơ ngày nay không nhất thiết phải là những câu chữ mài giũa nhịp nhàng vần điệu như ngày xưa; từ đây, người ta bàn nhiều đến câu chuyện tương tác xâm nhập giao thoa thể loại. Hay sau thơ của nhóm Mở miệng, nhóm Ngựa trời, một bộ phận công chúng không còn mặc định, rằng chữ của thơ phải là thứ chữ cao cấp đặc tuyển siêu chữ mĩ chữ; từ đây, người ta hiểu, thơ không chỉ “ca hát” mà còn là phản tỉnh, và khi thơ nói về vấn đề trần trụi gai góc thì cần thiết phải dùng đến một thứ chữ trần trụi gai góc tương thích. Hay sau các thể nghiệm “thơ hình ảnh” của Tam Lệ, “thơ chữ cái” của Từ Huy, “thơ ngoài lời” của Dương Tường, thì một bộ phận công chúng không còn đinh ninh quan niệm, rằng thơ là tiếng lòng đi tìm tiếng lòng đồng điệu, rằng thơ là một trạng huống cảm xúc thăng hoa được vật chất hoá bằng những dòng ngôn từ nghệ thuật giàu nhạc điệu; từ đây người ta bao dung chấp nhận và bàn nhiều đến tính chất “trò chơi” của thơ, người ta dần nhận ra định nghĩa văn chương là nghệ thuật ngôn từ không còn có khả năng bao quát hết thực tiễn văn chương. Hay đọc thơ Nguyễn Quang Thiều, người ta vỡ lẽ, rằng ngôn từ thơ không nhất thiết cứ hàm súc kiệm lời; nhiều khi phải cần đến một thứ ngôn từ thơ sum suê rậm rịt mới có thể tải loát hết được sức suy tưởng vâm váp vạm vỡ như lửa của một cái tôi nội cảm mất ngủ trước vẻ đẹp bất tận của châu thổ cuộc sống đẫm đìa phù sa lộng lẫy cây ánh sáng… Hay một khi coi văn bản văn chương là trò chơi ngôn ngữ, là siêu hư cấu, thì cái gọi là chức năng nhận thức của văn chương bị chất vấn. Cũng vậy, một khi văn bản văn chương kiến dệt mĩ học của tính dục, mĩ học của bạo lực, mĩ học của cái ác…, thì cái gọi là chức năng thẩm mĩ của văn chương bị đặt vào tình thế tái nhận thức, và theo đó cái gọi là chức năng giáo dục của văn chương cũng bị giễu nhại hoài nghi. Người kể chuyện trong nhiều tiểu thuyết đương đại cứ “kể xong rồi đi”, anh ta chẳng đủ thẩm quyền và cũng chẳng đủ khôn ngoan thông thái sở đắc chân lí để có thể giáo dục ai cả. Ngày nay, việc của văn chương là cứ bày ra những khảo tra về khoảng mờ điểm tối của cuộc đời. Nhà văn thì chỉ giỏi thắc mắc thôi, ngoài ra không biết gì nữa đâu – một nhân vật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương đã nói như thế. Mà, những câu hỏi do nhà văn đặt ra luôn luôn rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào – nhà văn người Ý Claudio Magris đã nói như thế. Và, sự không biết trở thành sự hiền minh – nhà văn người Pháp gốc Tiệp Milan Kundera đã nói như thế.
Trước sự bùng phát của những xu hướng cách tân thử nghiệm văn chương hiện nay, lí luận văn học phải nhập cuộc để nhận diện dự báo đi trước và đi cùng sáng tác, miêu tả định danh sáng tác, khai mở kiến giải cơ sở văn hóa và nền tảng triết mĩ hình thành các xu hướng hiện tượng sáng tác kia, quán chiếu những tầng sâu hay những quan niệm mới về bản chất và yếu tính của văn chương. Người đọc toàn quyền tự do chọn lựa đối tượng đọc cũng như thâu nhận kết quả đọc, nhưng trước tiên, lí luận văn học chuẩn bị cho họ phông nền tinh thần tâm thế tri thức tối thiểu về các hệ mĩ học sáng tạo mới để họ rộng đường chọn lựa. Và siêu người đọc, tức nhà phê bình, thì rất cần chìa khóa đặc dụng để mở thông vào những tổ hợp kiến trúc văn chương mới. Chẳng hạn, nếu không lận lưng ít nhiều lí thuyết văn học như hậu hiện đại, trò chơi, liên văn bản, giải cấu trúc, phân tâm học…, thì sẽ gặp rào cản khi đọc truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, tiểu thuyết Trần Dần, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Đoàn Minh Phượng… Hay, nếu không bỏ túi ít nhiều tư duy triết học ngôn ngữ, triết học hiện tượng luận…, thì sẽ gặp trở lực khi đọc thơ Trương Đăng Dung… Bên cạnh văn nghệ đại chúng còn có văn nghệ nhằm vào công chúng có trình độ cao. Và đại chúng hóa trong bối cảnh ngày nay, nói như nhà nghiên cứu phê bình Nguyễn Hưng Quốc, cần được hiểu là nâng trình độ số đông lên trình độ của số ít, chứ không thể là hạ trình độ của số ít xuống trình độ của số đông.
Thế giới ngày càng phẳng, trình độ đọc của người đọc ngày càng cao, không thể cứ dùng mãi bộ tiêu chí đánh giá cũ, cái thước lí luận văn học cũ. Nhà văn Diêm Liên Khoa, trong bài viết thay lời giới thiệu bản tiếng Trung Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh (do dịch giả Hạ Lộ chuyển ngữ, Nhà xuất bản Văn nghệ Hồ Nam phối hợp với Công ti CS-Booky chính thức phát hành tại Trung Quốc vào tháng 3/2019), đã không ngần ngại gọi tiểu thuyết này là “tầm cao của văn học chiến tranh phương Đông”. Đến lượt, nhà văn Bảo Ninh, trong cuốn Tạp bút (Nxb Trẻ, 2015), đã không ngần ngại gọi tiểu thuyết Mình và họ của Nguyễn Bình Phương là “kiệt tác”…
Thế giới không xoay vần chung quanh những kẻ phát minh ra những tiếng ồn ào mới, nhưng xoay vần chung quanh những kẻ phát minh ra những giá trị mới; thế giới xoay vần im lặng vô thanh – Friedrich Nietzsche đã nói như thế. Ở địa hạt văn chương, chỉ những chủ thể sẵn tư duy lí luận văn học động và mở, tâm thế đọc thông thoáng, giác quan đọc tinh nhạy, cùng tấc lòng tương kính biệt nhỡn liên tài… thì may ra mới có thể nhìn ra và nghe ra được những giá-trị-mới-im-lặng-vô-thanh.
Cái gọi là giáo trình lí luận văn học đang đem dạy và học trong nhà trường hiện nay là được đúc kết viết nên trên cơ sở một vài hệ lí thuyết quan phương và những tác phẩm văn chương kinh điển được chọn lọc, nên không nghi ngờ gì nữa, đó là thứ lí luận thiếu tính cập nhật và bao quát. Văn chương là cái-đang-là, luôn ở thì hiện tại chưa hoàn thành. Việc tái định nghĩa phải được thực hiện chủ yếu thông qua các tác phẩm mang tính thử nghiệm được xem là thành công. Trong một nền văn học giàu có, gồm nhiều tác phẩm thành công, các định nghĩa được trừu xuất càng đa dạng thì đường biên của văn học càng được giãn nới.
Đối diện với cây đời thực tiễn văn chương không ngừng trương nở, một cách hành xử khôn ngoan là đa dạng hóa lí thuyết văn học, là để cho các lí thuyết đối thoại với nhau, là bảo lưu và phát triển những gì đúng đắn hiện có trong nền lí luận văn học của chúng ta và dần thải loại những gì không còn tương thích với thực tiễn văn chương nước nhà và thế giới, là không ngừng cập nhật tiếp biến những hạt nhân lí luận văn học mới của nhân loại. Nhưng, nếu không xuất phát từ thực tiễn sáng tác của ta, không tựa vững vào văn hóa văn học dân tộc, thì những lí luận hiện đại cao siêu xa xôi sẽ trở nên bất khả dụng. Cũng không thể phá dỡ cái khung lí luận cũ bằng cách vội vàng đóng khung lí luận mới. Đành rằng, tấm áo lí luận cũ chật không còn vừa hợp với cơ thể văn chương mới đang không ngừng bung mở, nhưng cũng không nên chỉ vin bám vào thực tiễn sáng tác ngổn ngang bộn bề hôm nay mà đem lưu kho tất thảy những thành tựu lí luận văn học dằng dặc hôm qua. Nghĩa là, công cuộc đổi mới tư duy lí luận văn học phải đảm bảo tính logic khoa học, tính biện chứng khách quan, tính kế thừa phát triển, phải hài hoà giữa quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm toàn diện. Lí luận văn học chỉ phát huy tác dụng định hướng mách đường chỉ lối cho sáng tác và tiếp nhận – phê bình một khi đó là thứ lí luận hiện đại cởi mở sâu sắc tinh tế sống động đa phương bao quát, có khả năng “gọi đúng tên sự thể”.
Cũng phải minh định, rằng thực tiễn văn học Việt Nam hôm nay đang cần một bộ tiêu chí lí luận phê bình mới để nhận diện đánh giá, chứ không phải là không thể có tiêu chí hay không cần tiêu chí như ai đó nói. Cách tân đích thực khác xa với phá bĩnh, với cách tân vô điều kiện. Đường biên của văn chương đang giãn mở, nhưng không có nghĩa là sẽ giãn mở đến vô biên, đến không còn là văn chương. Những nhà văn sáng tác trên phông nền văn hoá tư tưởng triết mĩ vững chắc, làm chủ các lí thuyết hiện đại trên thế giới, khác xa với những người viết học đòi bắt chước tung hoả mù hòng loè bịp thiên hạ.
Những năm gần đây, các lí thuyết văn học mới trên thế giới liên tục được cập nhật và giới thiệu ở Việt Nam, đã từng bước cải thiện trình độ ý thức lí luận của chủ thể sáng tạo cũng như chủ thể tiếp nhận – phê bình văn học. Đời sống văn học Việt Nam chứng kiến sự ra đời ngày một nhiều của những công trình phê bình giàu tính chuyên môn học thuật, sự xuất hiện tự tin tự chủ của nhiều nhà sáng tác đồng thời là nhà phê bình, chứng kiến sách văn học trong nước được dịch và quảng bá rộng rãi trên thế giới, rồi một số tác giả được trao giải thưởng lớn ở nước ngoài như Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Ý Nhi, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Phan Quế Mai… Một nền văn học Việt Nam chuyên nghiệp hiện đại không quá cách biệt với văn học thế giới, đang là mục tiêu hướng tới của cộng đồng văn học Việt Nam.
Tác giả: HOÀNG ĐĂNG KHOA