Nói về Nguyễn Đình Thi (1924-2003) là nói về một người đa tài và hào hoa. Ông hoạt động ở nhiều lĩnh vực: từ sáng tác văn thơ, âm nhạc, lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật đến nghiên cứu triết học và lãnh đạo, quản lý văn hoá, văn nghệ. Có lẽ chính sự đa tài, trí tuệ và tâm hồn phong phú đó mà trong mỗi tác phẩm của Nguyễn Đình Thi đều có tính “liên văn hoá”, “liên văn bản”. Ở lĩnh vực sáng tác thơ, những thi phẩm của ông thường giàu tính nhạc, chất hoạ, chân thực về tình cảm, cảm xúc được làm nên từ sự trăn trở với cuộc sống, với nghề viết và ý thức sáng tạo không ngừng. Với ông, “Tiếng Việt là ngôn ngữ có tính tượng thanh và tính nhạc. Nhà văn phải biết tận dụng một cách linh hoạt yếu tố vật chất ấy vì nó có tính truyền cảm rất lớn. Đồng thời phải sử dụng hết phần nghĩa của ngôn ngữ, trong đó phải biết sáng tạo thêm nữa. Nghĩa là phải dùng những từ có tính chất gợi mở, không giới hạn […]. Tác phẩn văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”[1]. Đặc biệt, Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Cái kỳ diệu của tiếng nói trong thơ, có lẽ chăng ta tìm nó trong nhịp điệu, trong nhạc của thơ. Nhịp điệu của thơ không những là nhịp điệu bằng bằng, trắc trắc, lên bổng xuống trầm như tiếng đàn êm tai…. Nhạc của thơ không giới hạn ở thứ nhạc ngoài tai ấy. Thơ có một thứ nhạc nữa, một thứ nhịp điệu bên trong, một thứ nhịp điệu của hình ảnh, tình ý, nói chung là của tâm hồn”[2]. Đất nước là bài thơ thể hiện được quan niệm nghệ thuật của ông với chất nhạc, chất hoạ hoà quyện chất thơ một cách tự nhiên, làm nên giá trị độc đáo của thi phẩm.
Đã có nhiều nghiên cứu, phân tích những thành công ở mỗi lĩnh vực hoạt động của Nguyễn Đình Thi. Sự đa tài của ông được thể hiện ở nhiều mảng sáng tạo và ở mảng nào ông cũng có những thành công, ghi dấu ấn sâu đậm. Ông tiếp cận sớm với triết học và có sách nghiên cứu triết học từ khi mới 18 tuổi, tiêu biểu và ghi dấu ấn nhất là cuốn Descarter và cuốn Siêu hình học, ông từng chia sẻ: “Tôi cặm cụi viết cuốn triết học phổ thông về Kant và gửi cầu may lên Nhà xuất bản Tân Việt ở Hà Nội. Không ngờ ít bữa sau, tôi được Nhà xuất bản mời lên gặp. Cuốn về Kant được in, tôi cũng vừa đủ 18 tuổi […]. Mấy cuốn sách triết học của tôi được in liền trong khoảng hai năm, có lẽ được chú ý phần nào là ở cuốn sách Descarter, và cuốn giới thiệu sự hình thành của phép biện chứng mà tôi đặt tên là Siêu hình học để lọt qua kiểm duyệt”[3]. Chỉ với hai ca khúc Diệt phát xít và Người Hà Nội, Nguyễn Đình Thi đã sớm tô đậm tên tuổi mình trong nền âm nhạc cách mạng Việt Nam. Diệt phát xít nói lên khí thế sục sôi cách mạng chống phát xít Nhật, ra đời cùng với Tiến quân ca của Văn Cao: “Những hồi còi báo động máy bay, bọn Nhật vây ráp rồi bắt bớ […]. Hồi đó anh Văn Cao viết bài Tiến quân ca và tôi cũng viết bài hát Diệt phát xít”[4]. Có người đánh giá nhạc phẩm Người Hà Nội là bài hát hay nhất về Hà Nội, đây cũng là nhạc phẩm chính thức ghi dấu sự “chuyển hẳn vào con đường sáng tác” của ông sau Cách mạng: “Sau cách mạng tháng Tám […], đến những ngày kháng chiến rời Hà Nội lên rừng núi, tôi mới chuyển hẳn vào con đường sáng tác, thoạt đầu làm bài hát Người Hà Nội rồi làm thơ và bắt đầu viết truyện”[5] – Nguyễn Đình Thi chia sẻ. Về văn, ông có Vỡ bờ, Xung kích, Vào lửa, Mặt trận trên cao là những tiểu thuyết tiêu biểu, xuất sắc. Thơ ông giàu cảm xúc, luôn có sự cách tân, sáng tạo (ông là người tiên phong ở thể thơ không vần – cũng là thể thơ mà ông chịu nhiều dư luận phê phán ở Hội nghị Tranh luận văn nghệ năm 1949), in dấu ấn trong thơ ca Việt Nam với những tác phẩm tiêu biểu như: bài thơ Đất nước (1948-1955) in trong tập Người chiến sĩ (1956); các tập thơ: Bài thơ Hắc Hải (1959), Dòng sông trong xanh (1974), Tia nắng (1983). Ở thể loại kịch, Nguyễn Đình Thi gặp nhiều trắc trở khi cho ra đời những tác phẩm xuất sắc như: Con nai đen (1961), Hoa và ngần (1972), đặc biệt là hàng loạt tác phẩm sau 1975 cho phép ông “nói được những vấn đề” như ông chia sẻ: “Sau giải phóng miền Nam, tôi bị ốm nhiều. Nằm bệnh viện kéo dài, tôi viết kịch, tôi cảm thấy kịch cho phép tôi nói được những vấn đề làm tôi suy nghĩ mấy chục năm. Từ năm 1977 tôi viết liền mấy vở Giấc mơ, Rừng trúc, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Tiếng sóng […]. Tôi vẫn cố gắng viết tiếp. Tôi muốn tìm một câu trả lời về ý nghĩa kiếp sống của con người, và thấy phải tìm trong cội nguồn cuộc sống và cách nghĩ của dân tộc”[6]. Mấy vấn đề văn học (1956) và Một số vấn đề đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ hiện nay (1957) là những tập tiểu luận tiêu biểu mà Nguyễn Đình Thi đóng góp cho lý luận, phê bình văn nghệ…
Có lẽ chính bởi hoạt động ở nhiều lĩnh vực sáng tạo, với tri thức uyên thâm và tâm hồn phong phú, luôn trăn trở cách tân trong sáng tạo nghệ thuật đã giúp thơ ông giàu chất nhạc, chất hoạ hoà với chất thơ trong thể hiện cảm xúc mà trường hợp bài thơ Đất nước (là sự kết hợp bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949), chỉnh sửa và hoàn thiện năm 1955) là một ví dụ.
Mở đầu bài thơ là cảm xúc được gợi nên bởi không khí tiết thu nơi chiến khu Việt Bắc với một “Sáng mát trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới” để nhân vật trữ tình hồi nhớ về “những ngày thu đã xa” ở Hà Nội. Vì là cảm xúc hồi nhớ nên nhịp điệu dàn trải, chậm, giọng điệu những câu thơ nhẹ nhàng đưa tâm hồn nhân vật trữ tình trở về với Hà Nội mùa thu trong ký ức:
“Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”[7].
Trong nỗi nhớ xa xăm (“Tôi nhớ những ngàu thu đã xa”), nét đặc trưng của mùa thu Hà Nội được tái hiện thoáng nhẹ, đẹp nhưng có chút buồn, tạo nên một bức tranh Hà Nội xưa trong ký ức nhà thơ được vẽ nên bằng thơ với bố cục và đường nét hài hoà có hương, có sắc, có thiên nhiên và con người, có âm thanh và hình ảnh rất đặc trưng. Ở đó, tiết thu “chớm lạnh” cùng gió “hơi may” như thấm vào, luồn sâu “trong lòng Hà Nội”/ những con “phố dài xao xác”; có những “thềm nắng lá rơi”. Ở đó, hình ảnh thơ như cho ta thấy con người/ chàng trai Hà thành biết bao tâm trạng khi phải rời xa Hà Nội: vừa có sự quyết tâm của một tráng sĩ lên đường kháng chiến vừa có sự bịn rịn, lưu luyến với nơi quen thuộc đã gắn bó bao năm được thể hiện qua hình ảnh và nhịp thơ tràn dòng ở câu trước, như đứt quãng ở câu sau:
“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”.
Nếu mùa thu Hà Nội hiện lên trong hồi ức, trong nỗi nhớ của chàng trai khi rời xa Hà Nội đẹp nhưng có chút buồn được gợi nên bởi giọng điệu, âm thanh và hình ảnh thơ, mà trước hết là khởi phát từ tâm hồn, tâm trạng của nhân vật trữ tình… ở đầu bài thơ thì đến những dòng thơ tiếp theo, tâm trạng của nhân vật trữ tình là tâm trạng của người chiến sĩ nơi chiến khu Việt Bắc reo vui, đầy phấn khởi, tự hào của con người được làm chủ non sông đất nước. Chính vì thế mà giọng điệu những câu thơ trở nên hồ hởi, dứt khoát, khẳng định (“Mùa thu nay khác rồi”), nhịp thơ nhanh tràn theo cảm xúc; hình ảnh mùa thu tươi sáng, rộng dài, trù phú:
“Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”.
Không còn là hình ảnh đẹp mà buồn, ý chí con người thì quyết tâm mà lòng người bịn rịn trong mùa thu Hà Nội xưa nữa; ở đây là “Mùa thu nay khác rồi”, “rừng tre phấp phới”, “Trời thu thay áo mới” với “trời xanh”, “cánh đồng thơm mát”, “ngả đường bát ngát”, “dòng sông đỏ nặng phù sa” và con người thì “đứng vui nghe giữa núi đồi”, “Trong biếc nói cười thiết tha”. Đó là những câu thơ thật giàu nhịp điệu, mang nhạc tính và giàu hình ảnh. Ở đấy ta lại thấy bức tranh thứ hai về mùa thu – bức tranh mùa thu Việt Bắc – cũng rất hài hoà, tươi đẹp, reo vui bởi lòng người cũng reo vui, phấn khởi, tự hào. Những câu thơ đó có thể cho ta hình dung về một bức tranh mà ở đó con người đang đứng trên một điểm cao reo vui, nói cười, chìa tay giới thiệu và khẳng định quyền sở hữu tất cả trời đất, núi rừng, non sông gấm vóc đều là “của chúng ta”.
Nguyễn Đình Thi đã khẳng định truyền thống yêu nước của nhân dân, anh hùng bất khuất của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Truyền thống ấy rất đỗi thiêng liêng như tinh thần, hồn cốt dân tộc ẩn sâu trong mạch nguồn văn hoá truyền từ những thế hệ cha ông đến con cháu muôn sau, đó là “những buổi ngày xưa” thiêng liêng “đêm đêm rì rầm trong tiếng đất” cứ “vọng về” tiếp sức tinh thần cho thế hệ con cháu đánh giặc và thắng giắc:
“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
[…]
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!”.
Vẫn là cảm xúc được thể hiện bằng những dòng thơ giàu nhạc tính, âm thanh và hình ảnh, Nguyễn Đình Thị đã gợi nên những mất mát, đau thương của nhân dân ta trong chiến đấu chống quân thù, tội ác của kẻ thù khiến cho nhân dân ta phải uất ức, căm hờn:
“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn”.
Giọng thơ da diết xót xa, hình ảnh thơ đầy ám gợi về tội ác của kẻ thù và sự đau thương của nhân dân ta trong kháng chiến. Như một góc quay ngược sáng trong điện ảnh, ánh mặt trời cuối chiều soi rọi qua những hàng rào dây thép gai của đồn bốt giặc khiến cho những mũi thép gai như “đâm nát trời chiều”, khiến cho cánh đồng quê vốn dĩ là nơi yên bình cũng phải tứa máu. Kẻ giặc hành hạ, bóc lột dân ta một cách tàn bạo còn được thể hiện qua những hình ảnh bát cơm dân ta ăn “chan đầy nước mắt” mà kẻ giặc còn “giằng khỏi miệng ta”, chúng “đè cổ”, “lột da”, hành hạ dân ta thật tàn ác:
“Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da”…
Dù chịu sự đàn áp đến tàn bạo của kẻ thù nhưng nhân dân ta, dân tộc ta luôn một lòng nồng nàn yêu nước; những người dân bình dị, chất phát, thật thà, hồn hậu nơi gốc lúa bờ tre đã từ đau thương mà chiến đấu và trở thành tượng đài của lòng yêu nước. Với một nét vẽ giản dị bằng thơ, Nguyễn Đình Thi đã dựng nên một tượng đài bất hủ về một dân tộc anh hùng:
“Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”.
Đặc biệt, khổ cuối của bài thơ là một sự kết tinh hình ảnh vươn mình đứng dậy của đất nước anh hùng. Những câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh như một cuộc tổng tiến công nổi dậy của những con người chính nghĩa vùng lên tiêu diệt cái phi nghĩa, bạo tàn của kẻ thù. Hình ảnh thơ vừa chân thực vừa đẹp đẽ dường như là sự phác hoạ lại hình ảnh khách quan cuộc chiến đấu và nổi dậy giành chiến thắng, làm nên tầm vóc của nhân dân ta, dân tộc ta anh hùng:
“Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà”.
Tóm lại, Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài, có tầm vóc và những đóng góp lớn lao đối với đời sống văn nghệ nước nhà. Ông hoạt động ở nhiều lĩnh vực, sáng tạo ở nhiều mảng và là người uyên bác, yêu nước và cách mạng, luôn trăn trở với đời, với nghề viết, khát khao đổi mới, sáng tạo, có tâm hồn phong phú, giàu cảm xúc. Chính những điều đó đã khiến cho thơ ông giàu tính nhạc, “thi trung hữu hoạ”. Nhạc tính và chất hoạ hoà quyện chất thơ đã khiến bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi không những mang tầm vóc tư tưởng, thể hiện tình yêu quê hương đất nước mà còn thể hiện sâu sắc, tinh tế cảm xúc của con người, có sức truyền cảm và tạo ấn tượng sâu đậm đối với người đọc; ngược lại, ở một khía cạnh nhất định, sự “tích hợp” nhạc, hoạ trong bài thơ Đất nước cũng là minh chứng cho sự đa tài của Nguyễn Đình Thi.
Tác giả: TS. Nguyễn Thế Bắc
[1] Hà Minh Đức (biên soạn, 1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, tr. 260.
[2] Nguyễn Đình Thi (2001): “Mấy ý nghĩ về thơ”, Tuyển tác phẩm văn học Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học, tr.1.
[3] Hà Minh Đức (biên soạn, 1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, tr. 252.
[4] Hà Minh Đức (biên soạn, 1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, tr. 253.
[5] Hà Minh Đức (biên soạn, 1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, tr. 253.
[6] Hà Minh Đức (biên soạn, 1998), Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Văn học, tr. 255.
[7] Các trích dẫn thơ bài Đất nước được trích trong Nguyễn Đình Thi toàn tập, tập II, NXB Văn học, 2009.