Sử gia Phan Huy Chú, đầu thế kỷ XIX nhận định về vị thế của Nghệ An như sau: “Nghệ An, phía nam giáp Thuận Hoá, phía bắc liền Thanh Hoá, phía tây giáp Ai Lao, phía đông giáp biển. Núi cao sông sâu, phong tục thuần hậu, cảnh tượng tươi sáng, gọi là đất có danh tiếng hơn cả Nam Châu. Người thì thuần hoà mà chăm học, sản vật thì nhiều thứ quý của lạ. Những vị thần ở núi ở biển phần nhiều có tính linh thiêng. Được khí tốt của sông núi, nên sinh ra nhiều bậc danh hiền. Lại còn khoảng đất liền với đất người Mãn, người Lạo, làm giới hạn cho hai miền nam bắc, thực là nơi hiểm yếu, như “Thành đồng ao nóng của nước”, và là then khoá của các triều đại”. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427), tướng Nguyễn Chích tâu với chủ tướng Lê Lợi rằng: “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng người đông, tôi đã từng qua lại Nghệ An nhiều lần nên rất thông thạo đường đất. Nay ta nên trước hãy đánh lấy Trà Long (một địa danh thuộc Châu Nghệ An xưa), chiếm giữ bình định cho được Nghệ An để làm chỗ đất dừng chân, rồi dựa vào đấy mà lấy tiền tài sức lực, sau đó sẽ quay cờ trẩy ra Đông Đô thì có thể tính xong được việc dẹp yên thiên hạ”. Đó là những nhận định rất xác đáng và đã được minh chứng trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam chúng ta.

Từ đầu thế kỷ X trở đi, nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập, tự chủ, các triều đại quân chủ Việt Nam trong quá trình xây dựng và củng cố triều đại của mình, bao giờ cũng đặc biệt chú ý đến Nghệ An. Nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà Lê thay nhau cử những hoàng thân quốc thích, những nhà chính trị lão luyện, những vị tướng giỏi vào trấn giữ vùng đất Hoan Châu. Lê Lợi với khởi nghĩa Lam Sơn (Thế kỷ XV), vua Quang Trung với chiến công đại phá quân Mãn Thanh (Thế kỷ XVIII). Trước sau, đều phải dựa vào xứ Nghệ làm thế “ỷ dốc” để tiến đánh quân thù, giải phóng đất nước, đưa giang sơn thống nhất về một mối.

Trải qua các triều đại, dẫu có thay đổi về cấp hành chính như châu, phủ, trấn hay trại thì Nghệ An vẫn là một vùng đất có tầm quan trọng vị trí địa quân sự, địa chính trị và địa kinh tế của nó. Dưới thời Lý, đây là vùng biên viễn của tổ quốc. Bấy giờ, Nghệ An là nơi mà các thế lực như Chiêm Thành, Lão Qua (tức là Nam Chương, có thể gọi là Lao Long, phía Đông và Tây Nam giáp với Miến Điện, Vạn Tượng. Phía Bắc giáp với tỉnh Hưng Hoá nước ta và tỉnh Vân Nam của Trung Quốc), nuôi tham vọng bành trướng. Bởi vậy, tháng 11 năm Tân Tỵ Càn Phù Hữu Đạo thứ 4 (1041), vua Lý Thái Tông xuống chiếu cho Uy Minh Hầu Lý Nhật Quang làm Tri Châu Nghệ An. Thời bấy giờ, Nghệ An là một vùng đất ở xa chính quyền trung ương, địa hình hiểm trở, nhiều thế lực cát cứ đã bao phen nổi lên tập hợp lực lượng âm mưu chống lại chính quyền phong kiến trung ương. Vì vậy, sau khi tìm hiểu khái quát địa bàn Nghệ An, Lý Nhật Quang đã đi tới quyết định chọn Bạch Đường (Gồm các thôn: Nhân Trung, Phúc Toàn, Phúc An, Nhân Bồi, Miếu Đường) làm lỵ sở của Châu Nghệ An.

Vậy địa danh Bạch Đường được chọn đặt “Phủ lỵ” có ý nghĩa như thế nào đối với xứ Nghệ và đối với sự nghiệp của Lý Tri Châu?

Địa danh Bạch Đường xuất hiện từ rất lâu, mãi về sau vào cuối thế kỷ XIX, để tránh kỵ huý tên vua Đồng Khánh, triều đình Huế mới cải đổi thành Bạch Ngọc. Hàng loạt địa danh khác cũng phải cải đổi như huyện Nam Đường thành huyện Nam Đàn, thôn Miếu Đường (có tên nôm là làng Mượu) thành thôn Tập Phúc…

Bạch Đường nằm về phía tả ngạn sông Lam, từ đầu đến cuối xã dài khoảng trên 4 km theo đường liên hương chạy dọc bờ sông. Từ thôn Miếu Đường xuôi dòng về chợ Lường (nay là thị trấn Đô Lương) chỉ có 4 km. Theo đường chim bay, phủ lỵ Bạch Đường cách biển Đông khoảng 35 km và cách thành phố Vinh hiện nay khoảng trên 60 km.

Di tượng Uy Minh Vương Lý Nhật Quang thờ tại Đền Quả Sơn (Ảnh tác giả chụp năm 2008)

Hiện nay, Bạch Ngọc là ranh giới giữa hai miền: trung du và đồng bằng của tỉnh Nghệ An. Cách đây độ vài trăm năm Bạch Đường thời đó là miền núi khá hiểm trở. Trước mặt, là dòng sông Lam – con sông lớn nhất miền Trung, chảy qua bồi đắp thành bãi phù sa ven vùng dân cư. Phía sau lưng sừng sững núi rừng có vô số loài chim muông và thú hoang dã, đồng thời là những kho tàng vô tận. “Rừng là vàng” đối với nhân dân Bạch Đường quả là không sai! Thời đó, các vụ lúa và hoa màu bấp bênh vì thiên tai và vì thú rừng phá hoại. Hai nghề Sơn tràng (khai thác lâm thổ sản) và săn bắn được coi là nghề chính.

Ngược dòng lịch sử, vào thời nhà Lý, thế kỷ thứ XI, Bạch Đường là miền sơn cước, núi giăng thành thiên la địa võng khá hiểm trở, dân cư tuy thưa thớt nhưng thuần phác, dũng cảm… Bạch Đường có lợi thế là trung tâm của châu Nghệ An. Từ địa bàn này, có thể xuôi theo đường thuỷ ra biển Đông, lên tận biên giới phía Tây hay vạch đường bộ đến Nghĩa Đàn, Quỳ Châu, men theo biên giới Việt – Lào ra Thanh Hoá hoặc phải rẽ xuống các huyện đồng bằng Quỳnh Lưu. Diễn Châu, Yên Thành. Đứng chân tại “Phủ lỵ” này có thể kiểm soát được cả vùng thượng du và vùng đồng bằng. Lúc thuận lợi thì phát huy thế mạnh khống chế miền ngược, làm chủ miền xuôi. Lúc khó khăn thì về đây thủ hiểm. Sông rộng, núi cao, khe sâu, rừng rậm, lèn đá trập trùng là những bức thành thiên nhiên lý tưởng cho một căn cứ địa, một an toàn khu của nhiều thời kỳ lịch sử giữ nước tại xứ Nghệ.

Chọn lỵ sở Bạch Đường chắc chắn Lý Tri Châu Lý Nhật Quang cũng đã phát hiện ra những ưu thế đó. “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã xác định Bạch Đường là “Phủ lỵ Nghệ An”, không có gì phải bàn thêm nhưng vì ghi quá vắn tắt chưa làm nổi bật đặc điểm địa hình, địa vật và cư dân của nơi đặt đại bản doanh này.

Phủ lỵ chính thức thiết lập dưới chân núi Quả Sơn, sát mép Lam Giang thuộc thôn Miếu Đường. Chu vi Quả Sơn không rộng lắm nhưng xếp liền kề với nhiều dãy núi khác liên kết thành đại ngàn có bề dày hàng trăm dặm. Đứng trên ngọn núi Quả quan sát: Phía trước mắt là sông Lam sâu rộng từ thượng Lào đổ ra biển Đông, phóng tầm mắt ra xa bao quát được cả vùng hạ lưu tiếp giáp biển Đông với dãy Hồng Lĩnh “99 ngọn”, hay vùng thượng đạo ra Bắc vào Nam, nổi bật giữa trời xanh là đỉnh lèn Kim Nhan hùng vĩ được coi danh thắng ấp ủ khí thiêng của xứ Nghệ. Quả Sơn cũng là một danh thắng nhưng trước hết Quả Sơn là một vị trí chiến lược, một căn cứ trọng yếu mà Lý Tri Châu đã sáng suốt, tinh mắt lựa chọn để thiết lập đại bản doanh trong sự nghiệp giữ nước của mình.

Trong buổi đầu dựng nước, tại Châu xa này, phủ lỵ chưa phải là nơi sầm uất đô hội mà là nơi đứng chân “Tiến thoái lưỡng lợi”. Chưa biết đích xác Lý Tri Châu đặt sở lỵ Bạch Đường vào thời gian nào và trong bao lâu? Chỉ biết rằng, sau khi Ngài mất, xứ Nghệ đã ổn định, có đà phát triển thì Thái sư Lý Đạo Thành về trọng nhậm từ năm (1072- 1073) đã dời lỵ sở đến Phật Kệ (sau đổi là Bụt Đà, nay là xã Đà Sơn, giáp với thị trấn Đô Lương về phía Nam ghé Tây), một địa danh văn hoá và kinh tế nổi tiếng đương thời, cách Bạch Đường khoảng 6 km.

Sơ bộ khảo sát các di chỉ còn lại tại Bạch Đường, có thể đoán định rằng: Lý Nhật Quang đã cắm lỵ sở tại đây để tính kế lâu dài. Đại bản doanh có sông lớn che chắn từ phía trước, bên tả là Bàu nước sâu (Đồng Bàu), tiếp giáp con Hói Thông (tức là một chi lưu nhỏ của sông Lam) ken dày bằng những rặng tre hai bên bờ, vượt Hói là luỹ đất dày. Cách Cửa Luỹ mấy trăm mét là xứ Nương Cộ (tức là vườn cũ, tiếng địa phương), nơi cư trú dân Miếu Đường, chuyên nghề trồng trọt và săn bắn. Phía trước làng và gần kề Cửa Luỹ là cồn Tiên Nông, một cồn đất được tôn cao, hẳn là hằng năm dân làng đến đây để làm lễ tế Thần Nông, vị thần chủ của nghề Nông Nghiệp? Cũng phía trước Nương Cộ hơi chếch về phía Đông là các núi thấp mang tên Cồn Đồn, Cồn Đình, sau lưng các cồn này là Cồn Tán, ít nhiều phản ánh địa điểm đóng quân và đặt chỉ huy sở vòng ngoài. Gần kề Cồn Đồn, Cồn Đình còn có Cồn Khách (phải chăng Cồn Khách ở đây là để đón khách xa trước khi nhận lệnh vào đại bản doanh?). Vượt Quả Sơn là địa phận làng Nhân Bồi hiện lưu giữ một số địa danh rất có ý nghĩa như Trại Bạc, Bãi Vàng, Vườn Nhà Trò… lùi sâu vào trong các dãy núi thấp um tùm rậm rạp, rất kín đáo, cách sông Lam khoảng vài km. Có lẽ những nơi này tích trữ hậu cần và tài sản quý? Là nơi nghỉ ngơi, giải trí của Lý tướng quân và các vị phò tá?

Lùi về phía Tây, thuộc địa phận thôn Nhân Trung, giữa núi non trùng điệp bao vây tứ phía còn có một tên đất gọi là Lò Rèn. Chắc chắn đây là “công binh xưởng” chuyên rèn binh khí, chiến cụ… Chiếm vị thế trung tâm của Châu, lại có địa lợi độc đáo kể trên nên Miếu Đường, Bạch Đường đã từng là “Thành đồng vách sắt” của đại bản doanh họ Lý tại Châu Nghệ An. Phủ lỵ Bạch Đường không một lần bị uy hiếp và tấn công. Dân cư Miếu Đường dàn sát Cửa Luỹ là tai mắt cho đội quân bố phòng mặt tiền. Dân các làng Nhân Bồi, Phúc Toàn, Nhân Trung góp sức bảo vệ kho tàng và tham gia chế tác vũ khí, chiến cụ. Dân làng Phúc Yên che chắn phía Tây Bắc phủ lỵ. Hai làng vạn Trung Lữ (Lở) và Cương Thố (Thỏ) góp phần canh phòng mặt sông, đồng thời lúc cần đưa thuyền bè vào việc giao lưu đường thuỷ.

Cộng đồng dân cư Bạch Đường chỉ chuyên nghề nông trang hay sống trên sông nước, khi đầu nguồn lúc cuối bãi đều rất thuần hậu, cần cù, giàu tình cảm và sống đầy chính nghĩa. Thời gian, Lý tướng quân đang làm chủ, họ là chỗ dựa đáng tin cậy. Khi Ngài tạ thế, quanh năm họ lo giữ phần mộ, xây dựng và bảo vệ đền miếu, trông coi cẩn thận việc hương khói. Cứ đều đặn hằng năm (sau này đổi ba năm hai lần) nhân dân trong xã tổ chức hết sức trọng thể lễ hội “Chèo bơi” để ôn lại công đức và thời oanh liệt của Đức Thánh Quả Sơn. Uy Minh Vương Lý Nhật Quang có công lớn nên các triều đại lần lượt xuống chiếu bao phong và thường cử Khâm sai về làm chủ tế vào ngày giỗ hàng năm. Đền miếu ngày càng được tôn tạo trên một khuôn viên hoành tráng ngoạn mục. Đền thờ Đức Thánh Quả Sơn linh thiêng, uy nghi, lộng lẫy là danh thắng vào loại bậc nhất của tỉnh nhà, dân thập phương lui tới hành hương không ngớt. Dân xã Bạch Đường là dân “Từ sự”, dân “Tạo lễ” (tức là chuyên lo việc  hương khói cúng tế, bảo vệ, tu tạo toà Đền và được nhà nước miễn phu phen, tạp dịch). Hàng ngày, năm cụ “Thủ từ” được cắt cử tới Đền chăm sóc hương khói và tiếp khách tứ xứ đến lễ bái. Cũng như nhân dân các miền của vùng đất Hoan Diễn, nhân dân Bạch Đường đã góp phần tạo lập nên truyền thống kiên cường, bất khuất của vùng biên cương đầy thử thách, họ rất tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng đó của dân tộc. Trải qua các thời kỳ dựng nước và giữ nước sôi động, Bạch Đường ngày trước và xã Bạch Ngọc sau này vẫn phát huy thế mạnh về vị trí địa lý và lòng dân đối với tỉnh nhà và cả vùng Liên khu IV. Thời Hậu Trần cũng như thời Lam Sơn khởi nghĩa, Bạch Đường vẫn là địa bàn đứng chân để tiến công hay cố thủ. Thời phong trào Cần Vương sôi sục khắp hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh vào cuối thế kỷ XIX, Bạch Ngọc là nơi thường lui tới của nghĩa quân Tác Khai, Tác Bảy và cụ lớn Hường (Tiến sĩ, Hường Lô Nguyễn Nguyên Thành). Trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930- 1931) tiếng trống kêu sưu làng Tập Phúc, Bạch Ngọc đã mở đầu cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân ở phủ Anh Sơn. Vùng đại ngàn trùng điệp của Bạch Ngọc đã từng bảo vệ tốt cơ quan của phủ uỷ Anh Sơn và tỉnh uỷ Nghệ An.

Toàn cảnh Đền Quả Sơn (Ảnh tác giả chụp năm 2008)

Sau cách mạng tháng 8/1945 thành công, các làng trong Bạch Ngọc thống nhất thành một đơn vị xã, đã thúc đẩy phong trào huy động nhân tài vật lực chi viện cho tiền tuyến. Lại một lần nữa, Bạch Ngọc trở thành căn cứ địa của miền Bắc Trung Bộ. Một thời, bệnh viện lớn của tỉnh dời về Bạch Ngọc. Trường Trung học Chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng, sau đổi thành Trường phổ thông cấp III, cái nôi đào tạo nhiều nhân tài cho Liên Khu IV và cho cả nước, đóng tại Bạch Ngọc đến khi chiến tranh chống thực dân Pháp kết thúc (1954). Thời nay, Bạch ngọc cũng là nơi đặt kho tàng, mở xưởng quân nhu, xưởng chế biến dược phẩm Trung Bộ…

Thời nào cũng vậy, nhân dân Bạch Ngọc đều hoàn thành trọng trách của vùng an toàn khu, căn cứ địa. Nhân dân Bạch Ngọc nói chung (mà số đông là dân nghèo) luôn sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi với anh bộ đội Cụ Hồ, thương binh, cán bộ, công nhân, học sinh các miền về đây công tác, điều trị hay học tập. Rất đông người khắp nơi có dịp qua lại tạm trú tại đây đều mến người, mến cảnh và lưu giữ những tình cảm tốt đẹp nơi đây. Bản thân nhân dân các làng trong xã luôn luôn bảo tồn thuần phong mỹ tục và rất cố gắng vươn mình để xứng đáng được Triều đình (thời trước), Chính phủ (sau này) và cả nước tin cậy. Từ Bạch Đường đến Bạch Ngọc và cho đến nay là 3 xã Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn đã có những bước trưởng thành rất đáng khích lệ:

Tận dụng “Tấc đất, tấc vàng”, các vùng kinh tế lâm nghiệp đều được khai thác tốt. Vùng bãi ven sông màu mỡ là nương dâu bạt ngàn, có trồng hoa màu xen kẽ. Vùng đồng ruộng bàn Phật thường bị chia cắt bởi khe, hói nay hệ thống thuỷ nông được bố trí khoa học nên những cánh đồng lúa và hoa màu được tưới tiêu hợp lý. Vùng núi rừng trước đây là kho lâm thổ sản vô tận, nguồn lợi lớn của Bạch Ngọc và các xã xung quanh. Từ lâu dân chuyên sống về nghề nông và khai thác lâm thổ sản, ít nhà giàu lớn, đời sống giữ mực “Thường thường bậc trung”. Nếp sống bình dị, mực thước, chân chất, ít xảy ra các cuộc tranh chấp về tín ngưỡng, về họ tộc và địa giới mà nó thường xảy ra ở các vùng quê khác.

Bạch Đường xa xưa và Bạch Ngọc ngày nay cũng là đất hiếu học. Đầu thập kỷ 40, thế kỷ XX, nhà nước bảo hộ Pháp mới mở một trường tiểu học (có lớp nhất) nhưng từ xưa làng cũng đã có trường, lớp dạy chữ Nho. Nhiều cụ đồ trong hay ngoài xã được một số tư gia mời về tại nhà để dạy cho con cái họ. Những vị “Đạo cao đức trọng” được dân xã ngưỡng mộ và kính trọng. Làng Mượu dựng một ngôi Nghè (tức là miếu, đền có quy mô không lớn lắm) gọi là Nghè Thầy Tú để biểu thị tinh thần hiếu học trọng Thầy. Số nho sinh trong xã vác lều chõng đi thi thời nào cũng có.

Tiêu biểu vào thế kỷ thứ XV, có cụ Đặng Minh Bích, tên tự Ngạn Hoàn  thì tên tự ông là Ngạn Minh, người làng Trạc Thanh, đậu tiến sĩ dưới thời Hồng Đức (1484), làm quan đến bậc Thượng Thư Bộ Hộ dưới triều Lê Thánh Tông (Bộ Hộ là một trong lục bộ, là một bộ rất quan trọng: quản lý đất đai, thuế má, tài chính, hộ khẩu) .

Vua Lê Thánh Tông (tức là Lê Tư Thành) được xem là vị vua sáng nhất thời Hậu Lê. Người soạn thảo ra “Bộ luật Hồng Đức” rất nổi tiếng, là người có công mở rộng bờ cõi quốc gia đến Đại Lãnh (Phú Yên), người lập hội “Tao Đàn” (Nhị Thập Bát Tú) để minh oan cho Nguyễn Trãi, có “Bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư” (do sử gia Ngô Sĩ Liên biên soạn)… Một Thượng Thư trọng yếu cho vị vua sáng, hẳn là người có công rất lớn “Thần thiêng do bộ hạ”, “Vua sáng tôi hiền”, khi tuổi già ông về làng Trạc Thanh lập trường dạy học cho con cháu, ở gò đất đối diện với cửa đình (gọi là Nghè Cụ Thượng). Sau khi mất, dân xã lập miếu thờ gọi là đền Cụ Thượng. Có lẽ Cụ là người khai khoa ở Bạch Đường.

Về sau 8 con trai của ông đều đỗ cử nhân, hương giới. Hậu duệ của ông có người đậu cử nhân ở Quốc Tử Giám, về phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định làm “Thầy đồ Nghệ”. Nhánh họ về Diễn Lộc có tiến sĩ Đặng Thuỵ (1906), phó bảng Đặng Hướng và Đặng Oánh (2 anh em cùng đỗ khoa thi Hán học cuối cùng 1919).

Cụ Nguyễn Đào Thục (Nguyễn Huy Thục) người làng Nhân Trung đỗ Hương Cống loại ưu, tiếp tục ra Quốc Tử  Giám học “cầm chắc” đỗ đại khoa (tức là tiến sĩ), gặp loạn thời Lê – Trịnh nên ông về quê lập trường dạy học cho con em Bạch Ngọc.

Cử nhân Nguyễn Công Tấn người làng Phúc Yên, làm Tri huyện Anh Sơn, Tri phủ Tiên Hưng (Thái Bình) là thân phụ của nhà thơ, vị tướng, nhà kinh tế tài ba mang tính cách Bạch Ngọc, đó là Dinh Binh Hầu Nguyễn Công Trứ:

“Xót người tiền đếm, gạo lường
Thế mà cũng chịu một trường hoá sinh”
(Nguyễn Công Trứ).

Tiếp đó, còn có cử nhân Lê Vinh Tiến (Tri huyện), cử nhân Đào Văn Kiểu (Đô Bá Tài Hầu), cử nhân Đặng Quốc Quang (Phúc An Hầu), cử nhân Nguyễn Cao Thọ (Thống Đốc Định Binh), cử nhân Lương Tiến Học… đều đỗ đạt làm quan dưới thời Hậu Lê.

Cách mạng tháng tám 1945 thành công, dân xã Bạch Ngọc nô nức phát triển giáo dục đại chúng. Cùng với các lớp bình dân học vụ, làng nào cũng mở trường lớp cấp I. Đặc biệt, khi hai trường Trung học chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng và trường Trung học phổ thông Nguyễn Công Trứ dời về xã nhà, số học sinh trung học tăng nhanh. Phát huy truyền thống hiếu học sẵn có, xã đã dành cho trường rất nhiều ưu tiên, nhiều bậc cha mẹ “muốn con hay chữ” đã rước thầy và học sinh lớp trên về làm gia sư. Chỉ sau 5 năm (1950 – 1955), Bạch Ngọc đã có đội ngũ học sinh cấp III đông đảo. Từ sau năm 1950 đến nay, con em Bạch Ngọc đã làm rạng danh quê hương đất tổ, có hơn 600 con em đỗ cử nhân, tiến sĩ (Trong đó, có hơn 30 người là giáo sư, tiến sĩ và có 3 vị tướng). Hiện nay, không ít con em Bạch Ngọc là Tiến sĩ, Phó tiến sĩ, Giáo sư, Phó giáo sư, Thạc sĩ, Kỹ sư, Cử nhân khoa học, Cử nhân văn chương, Văn nghệ sĩ… đang cống hiến trên nhiều lĩnh vực và hoạt động trên khắp mọi miền tổ quốc.

Con người xứ Nghệ từ trước đến nay vẫn nổi tiếng là hiếu học, khổ học, thông minh, trí tuệ trong sáng, có nghĩa khí, trọng đạo lý… Người các địa phương khác đều khâm phục tiết tháo của nhà nho xứ Nghệ là bởi họ luôn thuỷ chung phấn đấu hoàn thành trọn vẹn lý tưởng của mình. Đúng như, các tác giả sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã nhận định: “Học trò Nghệ An chuộng khí tiết, nhiều người hào mại, có chí chăm học, văn chương thì dùng lời lẽ cứng cát, không cần đẹp lời”. Chính đó, là ngọn nguồn đã sản sinh ra không biết bao nhiêu nhà nho khảng khái, những ông đồ hay chữ, những nhà thơ giàu lòng nhân đạo, những sĩ phu yêu nước… trên mảnh đất Hồng Lam.

Người xưa thường nói: “Thiên thời không bằng địa lợi, địa lợi không bằng nhân hoà”. Lịch sử đã chứng minh rằng vùng đất Nghệ An trở thành phên dậu của quốc gia Đại Việt, trung tâm là phủ lỵ Bạch Đường. Bên cạnh, địa lợi đất dụng võ của người anh hùng hào kiệt, mà còn bởi cảnh non nước đẹp, con người trung nghĩa, như nhà thơ Nguyễn Xuân Ôn từng ca ngợi:

“Non nước Châu Hoan đẹp tuyệt vời.
Nêu gương trung nghĩa biết bao người”.

Mộ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang tại Đền Quả Sơn (Ảnh tác giả chụp năm 2008)

Đền Quả Sơn là đền thờ chính được xây cất cạnh mộ táng Uy Minh Vương. Đền được “Ban quốc tế” (tức nhà nước tế tự và xây dựng) là “Anh Châu Đệ Nhất Từ”, “Anh Linh Đệ Nhất Từ”, “Chung Cổ Tối Linh Từ” (Đền linh thiêng vào bậc nhất). Đức thánh Đền Quả Sơn được coi là “Đại Phúc Thần” của cả Châu Nghệ An.

Khi quốc gia hữu sự, có việc chinh phạt, nhà vua làm lễ cầu đảo, rước kiệu thần đi trận: Thời Nguyên Phong (1251- 1258) vua Trần Thái Tông rước kiệu vương (Thánh Quả Sơn) đi trận quả nhiên toàn thắng. Vua Lê Thánh Tông trước khi đi đánh dẹp Chiêm Thành, mở rộng biên cương cũng đã đến cầu đảo tại Đền Quả Sơn và cũng toàn thắng trở về.

Kể cả việc của Hoàng gia như: Thời vua Hàm Nghi xuất bôn, hoàng hậu đã đến đây cầu đảo và cúng 20 cờ rồng đuôi nheo. Vua Bảo Đại đã phái quan từ Phú Xuân ra Đền Quả Sơn xin “linh dược” để về chữa bệnh “nan y” cho hoàng tử Bảo Long… Nhân dân, du khách thập phương từ  xa xưa đến nay liên tục đến “hương khói” cầu mong, tưởng niệm Đức Thánh Quả Sơn.

Sự “linh thiêng” của Đền Quả Sơn- Truyền thuyết dân gian vùng Bạch Đường về cái chết và sự hiển thánh của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang. Truyền thuyết về Ngài rất nhiều, lưu hành rộng rãi trong cả xứ Nghệ. Nhưng sau đây, tôi xin ghi lại một vài huyền thoại về cái chết và sự hiển thánh của Ngài được nhiều người biết, qua tài liệu sưu tầm và ghi chép của PGS. Hoàng Hữu Yên như sau:

Vùng biên giới phía Tây trùng điệp và hiểm trở thường bị bọn phỉ quấy nhiễu. Quân Lão Qua (Lào) thuộc các bộ lạc Vạn Tượng thường xua quân sang cướp phá. Vương đã từng thân chinh nhiều lần đánh dẹp, giữ vững biên cương, củng cố trật tự trị an xã hội.

Không may, lần hành quân cuối cùng gặp thế giặc mạnh, quân lính thất trận. Vương bị tướng giặc chém ngang cổ. Nhưng lạ thay! đầu không rơi, người vẫn trên mình ngựa men theo tả ngạn sông Lam, phi nước đại về đến địa phận xã Bạch Đường thì dừng ngựa, ghé vào quán nước sát bờ sông, ngựa liền quay hai ba vòng định quỵ tại đó. Ngay tức khắc, cô hàng nước biết ý bèn đến trước ngựa và bảo: “Ngài bị tử thương, khó qua khỏi, trời đã dành một ngôi âm phần tại chân núi Quả, thuộc thôn Miếu Đường, Ngài cứ cho ngựa về xuôi chừng năm dặm thì đến bãi cỏ may, gần bờ sông, đó là đất huyết thực ngàn thu !”

Được lời chỉ dẫn, người ngựa lại tiếp tục lên đường. Trời sắp tối Vương cũng vừa tới bãi cỏ bằng phẳng dưới chân núi Quả. Cả người và ngựa liền quỵ xuống đất.

Kỳ diệu thay ! hàng hà sa số con mối xuất hiện đua nhau tha đất lấp đầy thi thể Vương, phút chốc nấm đất đã trở thành ngôi mộ to. Hôm ấy, nhằm vào ngày mười bảy tháng Chạp âm lịch (17/12 ÂL)

Sáng hôm sau, mười tám tháng Chạp (18/12 ÂL), một trai làng xóm Thượng thôn Miếu Đường (tức làng Mượu hay là làng Tập Phúc) đánh trâu đến cày tại thửa ruộng gần bãi cỏ may, bỗng dưng đứng sững lại, chết đột ngột! Vừa lúc ấy, có người làng ngạc nhiên thấy lạ vội chạy về thôn hô hoán. Khi dân làng đã đổ đến rất đông thì thấy một cụ già xuất hiện mặt đỏ gay, tay cầm nén nhang huơ lên trời, bảo với mọi người rằng: “Ta là thổ thần chốn này, truyền bảo cho dân sở tại biết: Đêm qua, Đức Trấn thủ Nhật Quang đã tịch nơi đây. Đất thiêng, giờ tốt, Ngài đã hiển thánh, dân làng hãy đến cồn Mối kia lễ tạ thì mọi việc đều thông thuận cả !”. Quả nhiên, sau khi dâng hương lễ tạ, người trai làng và trâu cày trở lại bình thường.

Ít lâu sau, dân làng Mượu rủ nhau lên núi Quả chặt cây, đẵn gỗ, dựng lên ngôi miếu nhỏ bên cạnh mộ Đức Thánh. Tương truyền miếu rất linh thiêng. Dân quanh vùng nghe tiếng đến làm lễ kỳ yên và cầu xin được phù trợ…đều cầu được ước thấy. Từ đó, miếu làng Mượu quanh năm khói hương nghi ngút, khách thập phương về hành hương ngày càng đông…

Truyền thuyết tiếp tục kể:

Cô hàng nước chỉ dẫn vùng đất huyết tế thiên thu cho tướng quân họ Lý nguyên là Bà Bụt hiện hình để gia ân cho người có công với nước. Dân xóm chài thuộc làng vạn Trung Lữ (sau đổi là thôn Thượng Thọ sau này là thôn Trạc Thanh) không ai biết tung tích, chỉ thấy một quán tre lá sơ sài, sát lề đường, chủ là một cô gái mảnh mai, duyên dáng, mười phần xinh đẹp. Rất nhiều trai làng mơ ước được kết ngãi trăm năm, nhưng chưa một ai lọt vào mắt xanh của cô cả… Rồi một hôm, nhân lúc vắng người, một gã làng chài nọ lì lợm, bờm xờm, trêu chọc. Bị khước từ, anh ta thô bạo dùng sức mạnh cưỡng bức ! Không ngờ ! ngay lập tức cô hàng nước hiện hình Đức Phật Bà mười hai tay, nhảy tót lên đầu cưỡi ngang cổ anh ta.

Sau khi chỉ đất thiêng cho Uy Minh Vương Lý Nhật Quang và trừng trị tên vô lại, “cô hàng nước” cũng biến mất. Qua một đêm, dân xóm chài chỉ còn thấy một miếng đất bỏ không, quán và người chủ quán không còn nữa. Đời sau, dựa theo sự tích này dân làng sở tại cho tạc tượng Phật Bà mười hai tay cưỡi lên đầu một tên đàn ông, hẳn là để làm gương cho bọn gian dâm. Tượng Phật Bà được đặt trong một ngôi chùa, gọi là “Tiên Tích Tự” dựng ngay trên lều quán cũ. Dân làng gọi nôm na là Chùa Bà Bụt.

Lễ Tạ ơn tại Chùa Bà Bụt (Ảnh tác giả chụp năm 2008)

Sự hiển thánh của tướng quân Lý Nhật Quang tại Đền Mượu (tức là Đền Quả Sơn) có tiếng vang xa và lan truyền ngày càng rộng. Các vị trấn thủ kế nhiệm Vương và sau này các vương triều Trần, Hậu Lê, Nguyễn đều quan tâm tới Đền Quả Sơn này. Thời Lê Trung Hưng hễ mỗi lần xuất quân tại Nghệ An đi dẹp giặc giữ nước, củng cố và mở mang bờ cõi đều cử Khâm sai đến Đền Đức Thánh Quả Sơn cầu đảo xin được âm phù, có khi xin được rước kiệu Ngài đi tiên phong…, nhiều lần tiến quân đã giành được thắng lợi vẻ vang.

Sống cứu dân cứu nước, chết vẫn còn tác dụng cứu nước cứu dân ! Do công lao to lớn đó, cho nên các triều đại kế tiếp nhau từ Lý, Trần, Lê, Nguyễn hàng năm thường cử Khâm sai đại thần về làm chủ tế. Đền Quả Sơn được gọi là Đền Quốc Tế (nghĩa là lễ tế có tầm cỡ quốc gia). Khu đền miếu dần dần được mở rộng, thời nào cũng góp phần tu tạo thêm.

Dân Miếu Đường, Bạch Đường truyền ngôn rằng: Trước một kỳ tu tạo lớn, bỗng có lũ lụt to, nước sông Lam dâng cao chưa từng thấy, nhiều cây gỗ thuộc loại tứ thiết như Lim, Chò, Táu… từ vùng đại ngàn thượng nguồn trôi về đều dạt vào vùng nước xoáy tại vực sâu sát Đền. Dân tạo lễ, sau này gọi là dân từ sự (tức là dân chăm sóc đền miếu, lo việc phụng thờ) dễ dàng kéo lên, chất đống lại để đợi ngày phát mộc. Sau mùa lũ tiếp đến mùa cạn, năm này dòng Lam lại cạn kiệt nước hơn mọi năm. Được báo mộng dưới vực sâu còn nhiều gỗ quý, dân vạn chài Cương Thỏ (tức làng vạn Thanh Xuân) liền cử trai tráng lặn xuống đáy dùng dây Đỏi kéo lên vô số lõi Lim, lõi Chò… to đến người ôm không xuể. Được tin công cuộc đại tu Đền Đức Thánh Quả Sơn bắt đầu, thợ giỏi tứ xứ như “Thợ cưa Nghi Lộc, thợ mộc Ngọc Sơn” (Nghi Lộc: tên huyện, trước đây gọi là Chân Phúc, sát lỵ sở tỉnh Nghệ An  về phía Bắc, có nhiều làng chuyên làm nghề thợ xẻ gỗ; Ngọc Sơn: tên làng ở dưới chân rú (núi) Nguộc trước thuộc huyện Nam Đường, nay thuộc huyện Thanh Chương, làng nằm trên tả ngạn sông Lam, phần lớn dân làng này chuyên làm nghề thợ mộc) lần lượt kéo về làng Mượu đua nhau thi tài vẽ kiểu, thiết kế và thi công. Chẳng bao lâu, phần mộc kết thúc lại đến lượt thợ nề, thợ sơn tiếp tục lợp ngói, xây tường, lát sân, đắp mái và sơn son thiếp vàng di tượng, đồ tế khí, trang trí nội thất… Dân sở tại góp công sức bảo vệ khu rừng cấm, thường gọi là Rú Đền (tức Núi Đền), trồng hàng Thông trước cổng Tam quan và nhiều cây lưu niên quanh khu vườn Đền. Ngày tháng trôi qua, rặng Thông cao vút, vườn đền cây trái xum xuê toả bóng, mái ngói của 10 toà đền phủ rêu xanh. Cổ Miếu xưa kia đã trở thành ngôi Đền Quả Sơn hoành tráng, đồ sộ uy nghi, trang nghiêm, trấn ngự bên tả ngạn sông Lam, cách tỉnh lỵ Vĩnh Dinh (tức thành phố Vinh) khoảng 60 km theo đường chim bay, cách phủ lỵ Anh Sơn (nay là thị trấn Đô Lương, thuộc huyện Đô Lương) không đầy 4 km.

Nhân dân Bạch Đường, nhân dân nhiều vùng trong Châu và trong cả nước coi Ngài đã hiển Thánh sau khi mất. Để tỏ lòng tri ân và ngưỡng mộ đã gần 1000 năm nay nhân dân và nhà nước đều chăm lo việc hương khói, tế tự. Đặc biệt hằng năm, về sau thì ba năm hai kỳ, dân xã Bạch Đường tổ chức lễ hội hết sức linh đình, trọng thể để tưởng nhớ công lao to lớn và cầu Ngài phù hộ, mong giải toả về mặt tâm linh của mình. Vì thế, mới có câu ca về Đức Thánh Quả Sơn là:

                              “Sinh thời đỡ lệch phù suy

                       Quy tiên hiển Thánh giải nguy hộ đời”.

Đền miếu thờ Đức Thánh Quả Sơn, tục gọi là Đền Mượu từ thế hệ này qua thế hệ khác, được tôn tạo ngày càng đồ sộ uy nghiêm. Trước khi bị tàn phá do bom đạn của giặc Pháp, Đền Mượu được xếp vào loại lớn, uy nghi, hoành tráng thuộc loại bậc nhất trong nước.

Tài liệu tham khảo:

1. Toan ánh (1985), Hội hè đình đám, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Tôn Thất Bình (1988), Lễ hội dân gian Việt Nam, Nxb sở Văn hoá thông tin Bình – Trị – Thiên. 

3. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, tập 1.

4. Bùi Dương Lịch (1993), Nghệ An ký, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội.

5. Phan Khanh (1992), Bảo tàng – Di tích – Lễ hội. Vấn đề bảo vệ di sản văn hoá dân tộc, Nxb Thông tin.

6. Khâm định việt sử thông giám cương mục (1986), Nxb Giáo dục Hà Nội, tập 1.

7. Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (1981), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

8. Bùi Thiết (1993), Từ điển hội lễ Việt Nam, Nxb Văn hoá Hà Nội.

9. Hoàng Hữu Yên (1988), Đền Quả Sơn, Nxb Nghệ An.

(*) Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *